Vua
Gia Long sanh năm 1762, mất năm 1819. Sau khi đã bình định
nước Việt Nam, Ngài tức Hoàng Đế vị năm 1802 và khai sáng
ra Nguyễn Triều.
Lăng của Ngài là lăng Diên Thọ, không mấy người
không biết, thuộc địa phận làng Định Môn, huyện
Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lăng Bà Thừa Thiên Cao
Hoàng Hậu và Bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, nguyên
phối và đệ nhị phối cùa Ngài cũng đều táng tại
vùng ấy cả.
Ngài và hai Bà đều thờ tại Chánh án Thế Miếu và
tại Chánh án điện Phụng Tiên ở Kinh Thành Nội.
Hệ Nhứt Chánh gồm có 9 Phòng, tổng cộng về nam
được 380 người (năm 1943).
(Trích
Hoàng Tộc Lược
Biên)
Đức Thế Tổ Cao
Hoàng Đế là vị Vua đầu tiên và là người đã lập ra triều
đại nhà Nguyễn, sau khi thống nhất sơn hà, đặt quốc hiệu
Việt Nam. Ngài đã sáng lập Hệ Nhất Chánh Nguyễn Phước.
Ngài là
Hoàng Tử thứ 3 của Ngài Nguyễn Phúc Luân. lúc còn tuổi thơ
ấu, Ngài rất được Chúa Nguyễn Phúc Thuần thương yêu, nên
được ở trong học đường Vương Phủ. Vào tuổi thiếu niên Ngài
đã tỏ ra là người tài trí, khôn ngoan với đức tính khoan
hoà, đầy nghị lực của đấng lập nghiệp lớn.
Năm 1777
khi Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, cùng với cháu là
Hoàng Thân Nguyễn Phúc Đồng (con Ngài Nguyễn Phúc Luân) và
Tống Phước Thuận, Nguyễn Doanh Khoảng...bị Nguyễn Huệ bắt
tại Long Xuyên và đem về Sài Gòn giết, thì chỉ có một mình
Hoàng Thân Nguyễn Phúc Ánh thoát nạn. Ngài chạy ra đảo Thổ
Châu (Hà Tiên) và từ đó mọi quyền hành quốc sự do Ngài
thống lĩnh.
Năm 1778
(16 tuổi) Ngài được ba quân suy tôn lên làm nguyên soái
nhiếp chính quốc và khởi binh chiếm lại Gia Định.
Từ đó suốt
24 năm, được sự ủng hộ của dân nghĩa hiệp vùng đất mới
khai hoá từ Gia Định đến Phú Quốc, từ Cà Mau đến Hà Tiên,
Ngài đã vượt qua mọi gian nguy, bao phen vào sanh ra tử,
kiên cường chống lại quân Tây Sơn. Cuối cùng Ngài khôi
phục lại xứ Đàng Trong của các Tiên Chúa. Năm 1801 tiến
quân ra Bắc Hà, đánh bại hoàn toàn nhà Tây Sơn; năm 1802
lập nên một nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc, từ
mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan như ngày nay.(26)
Sau khi
lên ngôi Hoàng Đế năm 1802, Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế đã xếp
đặt lại cơ cấu điều hành quốc gia, cho soạn bộ luật Gia
Long, thành lập Quốc Tử Giám, ấn định học hiệu và các loại
thuế. Công cuộc cai tri đất nước được thuận lợi sau khi
thực hiện các việc lớn như: Tổ chức triều đình gồm có lục
bộ và Đô Sát Viện; phân chia khu vực hành chánh (Tổng
trấn, Trấn, Phủ, Huyện, Xã); ấn định quyền hạn chức
chương, lương bổng, văn võ giai các cấp, tu soạn sách sử,
văn truyện, địa lý, lập dinh Điền Sứ trông coi việc khai
khẩn ruộng đất.
Trong dòng
họ, Ngài ban dụ Quốc Thúc Tôn Thất Thăng lo viêc gia huấn
trong thân tộc, làm phổ hệ Tôn Thất, đặt chức Tôn Nhơn
Lệnh, Tôn Nhơn Phủ quản trị quốc tộc.
Sau 18 năm
ở ngôi, Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế băng hà năm 1820. Miếu
hiệu Thế Tổ Cao Hoàng Đế (Gia Long). Lăng của Ngài hiệu
Thiên Thọ, tại làng Định Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa
Thiên.
Tôn thờ
Ngài tại Chánh Án Miếu ở Thế Miếu trong Đại Nội kinh thành
Huế.
Hệ Nhất
Chánh có 9 phòng.
Hoàng Hậu
của Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế:
- Thừa
Thiên Cao Hoàng Hậu, huý Tống Thị, con Ngài Thái Bảo
Khuông Quận Công, huý Tống Phước Khuông và Bà Quốc Phu
Nhân Lê Thị.
Hoàng Hậu
băng hà năm 1814, hiệp táng tại lăng Thiên Thọ, làng Định
Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
- Thuận
Thiên Cao Hoàng Hậu, huý Trần Thị, con Ngài Lễ Bộ Tham Tri
Trần Hưng Đạt.
Hoàng Hậu
băng hà năm 1846. Lăng của Hoàng Hậu là Thiên Thọ Hữu,
trong khu vực Thiên Thọ Lăng.
Hai Bà đều
tôn thờ tại Án Chánh Miếu ở Thế Miếu trong Đại Nội kinh
thành Huế.
Đức Thế Tổ
Cao Hoàng Đế (Gia Long) có 13 Hoàng Tử và 18 Công Chúa.
(Trích
Nguyễn Phước Tộc
giản yếu) |