Vua Thành Thái, con
Ngài Dục Đức. Ngài lên ngôi ngày 1/2/1889 có 2 vị phụ chính là
Thái Tử Thiếu Phó, Đông Các Đại Học Sĩ, kiêm quản Quốc Tử Giám
Trương Quang Đàm và Lại Bộ Thượng Thư Nguyễn Trọng Hợp.
Tuy lên ngôi c̣n
tuổi thiếu niên (10 tuổi), nhưng Ngài đă có tính khí cương nghị
và đầy ḷng yêu nước. V́ vậy, dù ở ngôi Vua không bao giờ Ngài
lấy làm vui sướng, mà luôn luôn suy tư với vận nước. Ngài đă tự
giả dạng mất trí, che mắt thực dân Pháp và các hạng măi quốc cầu
vinh, để được tiếp cận dân chúng và các sĩ phu yêu nước mưu đồ
đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập cho xứ sở.
Ḷng ái quốc và
mưu đồ cứu nước cứu dân của Ngài không thoát khỏi sự ngờ vực,
theo dơi của thực dân nên Ngài bị Pháp bắt năm 1907 đem vào Vũng
Tàu (Bà Rịa) quản thúc một thời gian, rồi đưa sang an trí tại
đảo Réunion của Châu Phi thuộc địa Pháp.
Năm 1947, Ngài
được nghinh đón trở về nước và sinh sống b́nh dị tại ngôi biệt
thự ở đượng Thành Thái, quận 5 đô thành Sài G̣n. Năm 1954 Ngài
mất và được rước về yên nghỉ tại khuôn viên thành An Lăng (lăng
Đức Dục Đức) tại xă An Cựu, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên.
Vua Thành Thái
có 16 Hoàng Tử và nhiều Công Chúa.
Việc thờ phụng ba
Hoàng Đế yêu nước bị thực dân Pháp phế truất:
Trước Cánh mạng
Tháng 8: tại Thế Miếu trong Đại Nội, thờ 7 Vua là Đức Gia Long,
Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Kiến Phúc, Đồng Khánh và Khải
Định.
Từ năm 1954 trở
lại đây: bài vị của Đức Vua Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân đă
được Hội Đồng Trị Sự Nguyễn Phước Tộc rước vào Thế Miếu tôn thờ
với các Đức Vua nêu trên.
(Trích Nguyễn Phước Tộc
giản yếu) |